THU BỒN
Thu Bồn, cuyo verdadero nombre es Ha Duc Trong (nacido el 01 de diciembre de 1935 en Quang Nam, murió el 17 de junio de 2003), poeta y escritor en Vietnam.
Thu Bồn nacido en el distrito de Dien Thang, Dien Ban, en la provincia de Quang Nam, a los once años era cadete en unidades de combate especiales. Durante la guerra de Vietnam, se desempeñó como corresponsal de guerra Zona de Contacto V, para luego volver a trabajar en el ejército The Arts Journal of General, Departamento Político del Ejército Popular de Vietnam. Fideicomisarios Thu Bon Comité Ejecutivo de los miembros del Comité Central y Ejecutivo Asociación Cultural central de la Asociación de Escritores de Vietnam bloque IV.
Además de poesía, Thu Bồn también escribió novelas, pero es más conocido por la épica, en la que el canto de los pájaros, sigue siendo considerado como el éxito orientado a su estilo típico y el primer poema de la liberación literaria".
Las principales obras
Bài ca chim Chơ Rao (trường ca, 1962),
Tre xanh (thơ, 1965),
Mặt đất không quên (thơ, 1970),
Những đám mây màu cánh vạc (tiểu thuyết 2 tập, 1975);
Oran 76 ngọn (trường ca, 1979),
Người vắt sữa bầu trời (trường ca, 1985)
Thông điệp mùa xuân (trường ca, 1985)
Một trăm bài thơ tình nhờ em đặt tên (thơ, 1992)...
Tôi nhớ mưa nguồn (thơ, 1999)
Trường ca tuyển tập (1999)
Gỡi lời con đến cùng cha
Quê hương mặt trời vàng
Vùng pháo sáng (tiểu thuyết)
Tropiezo por el llamado de un pájaro
El anhelo del bosque,
De los árboles y las hojas.
En mi corazón el anhelo es muy verde.
El pájaro recuerda su nido,
Su grito como una perla, chamuscado por la colina
Donde los invasores dejaron caer toneladas de bombas
Que al estallar penetraron en mi memoria.
En la cuna del cielo azul
El llamado del pájaro de alambre cruzado teje cien mil hamacas,
Me arrulla en un sueño pacífico.
Tu beso cae a través de muchas lluvias,
La discreción revelada en brotes verdes.
El naranja ha lanzado el bosque hasta el pasado
Entonces la luz del sol inunda la calle.
Tropecé por el llamado de un pájaro,
El bosque de la patria se levanta nuevamente en mí.
Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena
Đà Lạt
Những dòng thác trắng tuổi thơ
Chập chờn suy tưởng... bất ngờ thông reo
Cuộc chơi tìm những cheo leo
Ta hôn em giữa lưng đèo gió mây
Núi đồi xơ xác cỏ cây
Mà sao em vẫn hây hây má hồng
Ngẩn ngơ đứng dưới trời thông
Ở đây rét lắm mùa đông hơi dài
Ta chơi một kiếp trần ai
Để em gánh lệch hai vai Đồi Cù
Em còn đứng mãi hát ru
Mộng mơ chi lắm phù du kiếp người
Lụa là một thuở rong chơi
Rồi bay như nước bốc hơi mặt hồ
Hỡi người xây dựng cơ đồ
Cỏ xanh lại mọc bên hồ Đạm Tiên
Ta về say ngã ba miền
Về đây gánh hết ưu phiền cho em.
(Trại sáng tác Đà Lạt
30-02-1995)
Quá vãng
bom ập xuống, lòng hầm võng
đưa cây nến tắt
khói mù mịt cay xè đôi mắt
cuộc chiến vào đoạn cuối lầy sình
bát cháo loãng em đưa
tôi húp đánh lừa cái đói
ngày mai mình sẽ có cơm!...
giờ ta nhớ lại giòng sông và núi non cao ngất
làm dịu nỗi buồn suối khe
di cảo một thời vàng son
đôi cánh rộng chuyến bay dài kiên nhẫn
chiếc cốc đựng tràn nước mắt vỡ tan
mùa xuân hiện lên dòng sông pha lê trong suốt
em về khoả thân dưới vầng trăng.
Nguồn: "Kiến thức ngày nay" xuân Mậu Dần 1998
Đất
khi nước chảy trên đất này
người ta gọi là sông
khi đất nằm nghiêng
người ta gọi là đồi
khi đất đứng lên nhìn cho rõ đất
người ta gọi là núi
khi khế chua và ổi chát
vị đầu tiên đời sống tặng em
mẹ nẵn sữa bằng ngón tay đen đúa
tay tôi đầy gai vì níu những đàn trâu
môi nứt nẻ vì ớt cay và gió bấc
em ở đâu?
hạnh phúc rất xa vời...
chúng ta đều là đất cả thôi
xin đừng nặn ta thành những non cao
hãy nặn ta thành những ông táo nhỏ
cho nồi cơm bé nghèo hèn
cho người lớn khát tự do
trẻ con khát sữa...
chúng ta đều là đất cả thôi!
những hạt lúa củ khoai đều nhờ vào đất
cái gì gởi vào ta
sẽ lãi gấp mười
sẽ lãi gấp trăm
sẽ lãi gấp ngàn...
vì tất cả hạnh phúc khổ đau này đều từ đất mà ra.
(Đà Nẵng 1980)
No hay comentarios:
Publicar un comentario