Poeta Nguyễn Mỹ y autógrafo.
Nguyễn Mỹ
(21 de febrero de 1935 - 16 de mayo de 1971), poeta de Vietnam.
Nguyễn Mỹ nació el 21 de febrero de 1935, en el pueblo de Trung Luong, un distrito industrial Tuy An, provincia de Phu Yen. A los 16 años entró en el ejército, luchó en el campo de batalla de South Central. En 1954, vivió en el norte, con el grupo Van Highland, estudió grado en la Escuela Central de Propaganda y trabajó en la casa Economía editorial. En 1968, Nguyễn Mỹ volvió al campo de batalla y murió el 16 de mayo de 1971 en el distrito de Tra My, provincia de Quang Nam, en un ataque enemigo.
A Nguyễn Mỹ le fue concedido a título póstumo el Premio Estatal de Literatura y Artes en 2007.
Obras
Trận Quán cau (bút ký, 1954)
Sắc cầu vồng (thơ, in chung với Nguyễn Trọng Định, 1980)
Thơ Nguyễn Mỹ (thơ, 1993)
El adiós rojo
Fue un ardiente y rojo adiós,
Brillante como una golondrina teñida de rosa.
Mediodía a punto de pasar al invierno.
En el repentino sol de otoño
Vi a una muchacha de rojo
Despedir a su marido
En el parque iluminado por el sol.
Su marido estaba a punto de partir,
El vestido de ella como carbones encendidos,
Ardiendo en su despedida.
El parque verde y su ancho sombrero cónico
No podían ocultar el amor ardiente de ella,
No podían ocultar las lágrimas en sus ojos;
Calientes y resplandeciendo,
Cayeron en la madrugada
Que se abría entre sus labios,
En el sol naciente que pasó sobre su cara
Brillante como el rubí.
El árbol verde de ficus los invitó a sentarse
A su sombra, para hablar de su futuro.
Mañana será el día de la unión.
¡Su luz ilumina sus almas nobles!
Su marido ya se ha ido,
La luz del sol aún destella en los ojos de las hojas del mangle.
Se inunda de luz el parque
Cada pétalo de la flor roja tiembla todavía.
El viento me confió en sus susurros:
“Cuando el país lo pide,
Ellos saben que deben vivir separados...”
Pero conozco aquel color rojo.
El enrojecimiento en el rojo llameante
Es como el fuego rojo de la flor del plátano,
Como el enrojecimiento de las llamas de la cocina
De una distante aldea en frías noches ventosas…
Y aquel enrojecimiento continuará,
Como si no hubiera habido despedida.
Septiembre de 1964
Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena
Màu Chia Ly
Anh muốn cuộc chi ly
không hề có chia ly
bằng chấp nhận cái điều không tránh khỏi:
một chia ly
bao màu đỏ
không về!
Cuộc chia ly màu đỏ
Đó là cuộc chia ly chói ngời sắc đỏ
Tươi như cánh nhạn lai hồng
Trưa một ngày sắp ngả sang đông
Thu bỗng nắng vàng lên rực rỡ
Tôi nhìn thấy một cô áo đỏ.
Tiễn đưa chồng trong ánh nắng vườn hoa
Chồng của cô sắp sửa đi xa
Cùng đi với nhiều đồng chí nữa.
Chiếc áo đỏ rực như than lửa
Cháy không nguôi trước cảnh chia ly.
Vườn cây xanh và chiếc nón kia
Không giấu nổi tình yêu cô rực cháy
Không che được nước mắt cô đã chảy.
Những giọt long lanh nóng bỏng sáng ngời.
Chảy trên bình minh đang hé giữa làn môi
Và rạng đông đã bừng lên nét mặt
Một rạng đông với màu hồng ngọc
Cây si xanh gọi họ đến ngồi
Trong bóng rợp của mình nói tới ngày mai.
Ngày mai sẽ là ngày xum họp
Đã toả sáng những tâm hồn cao đẹp!
Nắng vẫn còn ngời trên những mắt lá si
Và người chồng ấy đã ra đi…
Cả vườn hoa đã ngập tràn nắng xế.
Những cánh hoa nhỏ vẫn còn rung nhè nhẹ
Gió nói, tôi nghe những tiếng thì thào.
“Khi Tổ quốc cần họ biết sống xa nhau…”
Nhưng tôi biết cái màu đỏ ấy
Sẽ là bông hoa chuối đỏ tươi
Trên đỉnh dốc cao vẫy gọi đoàn người.
Sẽ là ánh lửa hồng trên bếp.
Một làng xa đi giữa đêm giá rét…
Nghĩa là màu đỏ ấy theo đi.
Như không hề có cuộc chia ly
No hay comentarios:
Publicar un comentario