lunes, 10 de agosto de 2015

HOÀNG TRUNG THÔNG [16.757] Poeta de Vietnam


HOÀNG TRUNG THÔNG


Nació el 5 de mayo de 1925 en Quynh Doi, distrito Quynh Luu, provincia de Nghe An, Vietnam. En la niñez estudió los caracteres chinos y es considerado como un prodigio conocido en toda la región. Al llegar a los 12 años, asistió a la Escuela Nacional de Vinh, una de las escuelas de su tiempo. Escapó pronto para unirse al movimiento revolucionario en Vietnam Ming, en la lucha contra Francia junto a Hai Trieu, Luu Trong Lu, Che Lan Vien, líderes de la Sociedad de Arte de oficinas de la Región IV.

Desde 1945 hasta el final de su vida, además de componer poesía y estudios teóricos, la crítica literaria, la caligrafía, emprendió importantes cargos como funcionario cultural de la IV Región Comisionado, los miembros del Comité Provincial del Partido Nghe An, miembro del Subcomité de Artes central; Secretaria de la oficina de la revista Artes de la Asociación Cultural de Vietnam; Editor- El Periódico Artes, informó las nuevas obras de la Asociación de Escritores de Vietnam; Director Editorial de Literatura, El Departamento de Artes de la Central de Propaganda del Comité y Director del Instituto de las Artes (1976-1985).

Hoang Trung Thong murió el 04 de enero 01 de 1993 por enfermedad de lpulmones y hígado en Hanoi. Aunque disfrutó de una gran responsabilidad en el arte, él vivió una vida pobre, puro y limpio. 

OBRAS:

Ensayo

Chặng đường mới của văn học chúng ta (1961)
Cuộc sống thơ và thơ cuộc sống (1979)
Những người thân những người bạn (2008)

Poesía 

Quê hương chiến đấu (1955)
Đường chúng ta đi (1960)
Những cánh buồm (1964)
Đầu sóng (1968)
Trong gió lửa (1971)
Như đi trong mơ (1977)
Hương mùa thơ (1984)
Tiếng thơ không dứt (1989)
Mời trăng (1992)




Cua Tung: reina de las playas

Sin fin el mar arroja olas como siempre lo ha hecho.
Dos dunas escuchan a diez mil olas desbordarse.
La tierra se calcina con el olor de balas y bombas.
El aire se mantiene caliente.

Paso por aldeas donde no quedan ladrillos ni baldosas.

Arrasada está cada colina, con profundos cráteres.
Extensas hierbas ondulan en el viento sobre nuestras cabezas.
Bombas sin explotar yacen aún bajo la hierba.
Sigo las trincheras de tierra roja,
Fragmentos de bomba contaminan el camino.

¿Quién podría contar el hierro y el acero
Escupido a través de esta tierra?
¿Quién podría contar las heridas
Que han cicatrizado profundamente la tierra y las ramas?

Miles de veloces explosivos, miles de bombas de racimo,
El enemigo quiere hacer de nuestra tierra un terror blanco.
Ah, el viento hoy continúa ardiendo,
Y el fuego todavía colorea el cielo de rojo.

Oh Cua Tung, Reina de las playas.
Mantendré crecidos los fuegos del bambú
Por siempre en mi corazón,
Las cajas de pastillas en la alta colina,
Los bunkers interminables,
El verde de las hojas de la yuca,
La profundidad de los cráteres de las bombas,
Árboles de jaca destrozados, apenas floreciendo,
Casas que suben desde las profundidades de la tierra.

Guardaré todos los rostros a los que bombas y balas
No pudieron robar su inocencia, para siempre en mi corazón.
Los ojos del hombre guardo siempre en mi corazón.


Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena









Đồng bằng, quê hương chiến đấu

Đêm nay chúng ta đi 
Đêm sau còn đi nữa. 
Băng qua vùng đạn lửa, 
Làng tiếp theo làng, 
Qua những bến đò ngang, 
Những nẻo đường khét mùi xe giặc chạy. 
Băng qua đồn, 
Đi rồi đi mãi, 
Vào sâu giữa ruột đồng bằng. 

Các anh các chị nhớ chăng? 
Đồng chiêm cuồn cuộn sóng. 
Sông Hồng Hà như cánh tay mở rộng 
Ôm hai miền đất ruộng phì nhiêu. 

Bát ngát xanh màu lá mạ thân yêu, 
Lòng xúc động, ứa trào nước mắt. 

Ơi đồng bằng! 
Quê hương chúng ta, 
Lúa vàng rợp đất, 
Đường làng lát gạch 
Bờ tre sáng xanh. 
Trăng dọi mái gianh 
Mái nhà san sát. 
Ngân nga điệu hát 
Đò đưa, sa mạc, trống quân… 
Những điệu hát quen thân 
Như tự trong lòng bốc dậy. 

Ơi đồng bằng! 
Quê hương chúng ta, 
Ruộng đất bao la 
Dân cày vẫn khổ. 

Bán máu, bán mồ hôi cho địa chủ, 
Nhặt từng hạt lúa củ khoai, 
Khổ kiếp kiếp đời đời. 
Mỗi năm mùa nước lũ 
Nước sông Hồng như máu đỏ chảy xuôi. 
Vỡ đê! Vỡ đê! 
Trống thúc đổ hồi. 
Nhà cửa lúa khoai 
Theo dòng nước cuốn. 
Không nhà không ruộng 
Dân cày còn biết đi đâu? 
Người ở làng chết khổ bên nhau 
Người lên phố, dãi dầu kiếp thợ. 
Còn địa chủ, còn Tây, 
Đời đời vẫn khổ, 
Ngày lại như đêm 
Nghèo lại nghèo thêm 
Chết nhiều còn cứ chết. 
Ôi! Mùa đông giá rét 
Mùa đông 45 
Hai triệu người chết đói giữa đồng bằng 
Nhớ lại, lòng như dao cắt. 

Ơi đồng bằng! 
Quê hương chúng ta, 
Căm thù vót sắc, 
Căm thù khắc sâu, 
Người trước ngã, có người sau 
Chỉ một con đường: Cách mạng, 
Đây đồng bằng 
Quê hương tháng Tám. 
Cờ đỏ sao vàng 
Trên chợ, trên sông, trên phố, trên làng, 
Như ánh mặt trời cháy đỏ. 
Cả đồng bằng 
Ngửng đầu lên hớn hở, 
Hướng về tương lai. 
Cách mạng là đây, 
Hạnh phúc đây rồi, 
Nắm chặt bàn tay giữ lấy. 
Đêm nay chúng ta đi 
Đêm sau còn đi mãi 
Qua những vùng lửa cháy 
Vào sâu giữa ruột đồng bằng, 
Vào sâu trong những xóm làng 
Mái rạ, lều tre đổ nát. 
Đêm đêm từng tràng đại bác 
Từ trong bốt giặc, 
Dội về xóm thôn, 
Những bà mẹ bế con 
Chạy Tây càn cực nhọc. 
Những bé em gào khóc 
Trong quán lạnh bên đường. 
Mỗi tấc ruộng bờ nương 
Mỗi gốc cây hòn đá 
Đều nói lên tất cả 
Tội ác của quân thù. 
Nói mãi đến nghìn thu 
Vẫn còn chưa hả, 
Bốt Đởm, Cầu Bo, Quỳnh Lang, Phương Xá 
Nhắc tên lên, cũng đủ ghê người. 
Nhắc tên! Máu bỗng trào sôi, 
Gan ruột tím bầm căm giận. 

Ôi đồng bằng! 
Quê hương anh dũng. 
Ngày đêm không ngớt súng 
Bộ đội ta công đồn. 
Vút tiếng mìn vút lại tiếng bom 
Nổ trên đường cái. 
Những con đường nát mình phá hoại 
Những chiếc cầu mặt gác xuống lòng sông 
Những hầm ngầm, những chiến lũy giao thông 
Như hang chuột chạy dài dưới đất. 
Mỗi mảnh ruộng 
Mỗi góc hầm bí mật, 
Những bóng người du kích hiện lên 
Người dân cày địch hậu ngày đêm 
Cầm giáo mác 
Giữ gin xóm mạc. 

Đây đồng bằng lúa vờn xanh bát ngát 
Vùng căn cứ chúng ta 
Hai bờ sông Hồng Hà 
Như vành cung rộng mở. 
Ta thọc sâu vào ruột gan chúng nó 
Phá vỡ vòng đai. 
Làng xóm lại phục hồi 
Lúa mọc lên đồng chiêm ngập nước. 
Dân cày ta 
Bàn tay thay cuốc, 
Vai người thay trâu, 
Nắm chặt tay nhau 
Giữ làng chiến đấu. 
Đông bằng ta 
Thịt da còn rớm máu. 
Nhưng thép luyện tinh thần. 
Giặc càn đi quét lại quanh năm 
Vùng căn cứ vẫn như đồng như thép. 
Chúng ta về đồng bằng 
Giữa những đêm trăng 
Mùa đông lạnh buốt 
Từng đoàn dân công cuộn đi như nước 
Vượt sông Hồng Hà 
Từng đoàn bộ đội vào ra 
Lá rung rinh đầu súng. 
Ôi đồng bằng anh dũng 
Đồng bằng quê hương mến yêu. 
Trên mảnh đất phì nhiêu, 
Bên những tấm lòng phơi phới, 
Đều nghe rõ ngàn muôn tiếng nói: 
Giải phóng quê hương! 
Giải phóng đồng bằng!





Bao giờ trở lại

Các anh đi 
Ngày ấy đã lâu rồi 
Xóm làng tôi còn nhớ mãi 
Các anh đi 
Bao giờ trở lại 
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong 
Làng tôi nghèo 
Nho nhỏ bên sông 
Gió bấc lạnh lùng 
Thổi vào mái rạ 
Làng tôi nghèo 
Gió mưa tơi tả 
Trai gái trong làng vất vả ngược xuôi 
Các anh về mái ấm nhà vui 
Tiếng hát câu cười 
Rộn ràng xóm nhỏ 
Các anh về tưng bừng trước ngõ 
Lớp đàn em hớn hở theo sau 
Mẹ già bịn rịn áo nâu 
Vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về 
Từ lưng đèo 
Dốc núi mù che 
Các anh về 
Xôn xao làng tôi bé nhỏ 
Nhà lá đơn sơ 
Nhưng tấm lòng rộng mở 
Nồi cơm nấu dở 
Bát nước chè xanh 
Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau 
Anh giờ đánh giặc nơi đâu 
Chiềng Vàng, Vụ Bản, hay vào Trị Thiên 
Làng tôi thắng lợi vụ chiêm 
Lúa thêm xanh ngọn, khoai lên thắm vồng 
Giảm tô hai vụ vừa xong 
Đêm đêm ánh đuốc dân công rực đường 
Dẫu rằng núi gió đèo sương 
So anh máu nhuộm chiến trường thấm chi 

Bấm tay tính buổi anh đi 
Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về ? 
Lúa xanh xanh ngắt chân đê 
Anh đi là để giữ quê quán mình 
Cây đa, bến nước, sân đình 
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường 
Hoa cau thơm ngát đầu nương 
Anh đi là giữ tình thương dạt dào 

Các anh đi 
Khi nào trở lại 
Xóm làng tôi 
Trai gái vẫn chờ mong 
Chờ mong chiến dịch thành công 
Xác thù chất núi bên sông đỏ cờ 
Anh đi chín đợi mười chờ 
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh ?






Ánh đèn quê hương

Đường dài vun vút xe đêm 
Trên xe bỗng thấy ánh đèn quê hương. 
Mắt trông còn vướng bụi đường 
Mà sao ánh lửa đã vương trong lòng. 
Xe đi, ánh lửa đi cùng 
Hàng cây lá ngọn, gió đồng hương bay. 
Bộn bề công tác hôm nay . 
Trên xe chỉ đúng giơ tay vẫy chào. 
Ánh đèn thấp thoáng ánh sao 
Lòng mang ánh lửa đã bao năm rồi. 
Chân đi khắp biển cùng trời 
Bao nhiêu lửa đỏ, bao người mến yêu 
Quê hương ơi! ánh lửa chiều 
Lòng sao khơi dậy bao điều nhớ mong. 
Nhịp nhàng khung dệt đêm đông 
Đèn soi mắt mẹ, lửa hồng má con; 
Trâu về bước nặng đường thôn 
Ngọn đèn mới thắp, nồi cơm đang vần; 
Ánh đèn lớp học bình dân 
Mênh mông trang sách những vần ngân nga; 
Đèn treo lơ lửng gian nhà 
Chưa xong hội nghi tiếng gà gáy ran. 
Bờ tre ngả bóng đầu làng 
Biết bao năm tháng đã mang ánh đèn. 
Xe đi, nhưng mắt vẫn nhìn 
Lung linh ánh lửa, cây đêm chập chùng 
Xe đi, ánh lửa đi cùng 
Còn mang theo cả gió đồng quê hương.

1957




No hay comentarios:

Publicar un comentario