HOÀNG TRUNG THÔNG
Nació el 5 de mayo de 1925 en Quynh Doi, distrito Quynh Luu, provincia de Nghe An, Vietnam. En la niñez estudió los caracteres chinos y es considerado como un prodigio conocido en toda la región. Al llegar a los 12 años, asistió a la Escuela Nacional de Vinh, una de las escuelas de su tiempo. Escapó pronto para unirse al movimiento revolucionario en Vietnam Ming, en la lucha contra Francia junto a Hai Trieu, Luu Trong Lu, Che Lan Vien, líderes de la Sociedad de Arte de oficinas de la Región IV.
Desde 1945 hasta el final de su vida, además de componer poesía y estudios teóricos, la crítica literaria, la caligrafía, emprendió importantes cargos como funcionario cultural de la IV Región Comisionado, los miembros del Comité Provincial del Partido Nghe An, miembro del Subcomité de Artes central; Secretaria de la oficina de la revista Artes de la Asociación Cultural de Vietnam; Editor- El Periódico Artes, informó las nuevas obras de la Asociación de Escritores de Vietnam; Director Editorial de Literatura, El Departamento de Artes de la Central de Propaganda del Comité y Director del Instituto de las Artes (1976-1985).
Hoang Trung Thong murió el 04 de enero 01 de 1993 por enfermedad de lpulmones y hígado en Hanoi. Aunque disfrutó de una gran responsabilidad en el arte, él vivió una vida pobre, puro y limpio.
OBRAS:
Ensayo
Chặng đường mới của văn học chúng ta (1961)
Cuộc sống thơ và thơ cuộc sống (1979)
Những người thân những người bạn (2008)
Poesía
Quê hương chiến đấu (1955)
Đường chúng ta đi (1960)
Những cánh buồm (1964)
Đầu sóng (1968)
Trong gió lửa (1971)
Như đi trong mơ (1977)
Hương mùa thơ (1984)
Tiếng thơ không dứt (1989)
Mời trăng (1992)
Cua Tung: reina de las playas
Sin fin el mar arroja olas como siempre lo ha hecho.
Dos dunas escuchan a diez mil olas desbordarse.
La tierra se calcina con el olor de balas y bombas.
El aire se mantiene caliente.
Paso por aldeas donde no quedan ladrillos ni baldosas.
Arrasada está cada colina, con profundos cráteres.
Extensas hierbas ondulan en el viento sobre nuestras cabezas.
Bombas sin explotar yacen aún bajo la hierba.
Sigo las trincheras de tierra roja,
Fragmentos de bomba contaminan el camino.
¿Quién podría contar el hierro y el acero
Escupido a través de esta tierra?
¿Quién podría contar las heridas
Que han cicatrizado profundamente la tierra y las ramas?
Miles de veloces explosivos, miles de bombas de racimo,
El enemigo quiere hacer de nuestra tierra un terror blanco.
Ah, el viento hoy continúa ardiendo,
Y el fuego todavía colorea el cielo de rojo.
Oh Cua Tung, Reina de las playas.
Mantendré crecidos los fuegos del bambú
Por siempre en mi corazón,
Las cajas de pastillas en la alta colina,
Los bunkers interminables,
El verde de las hojas de la yuca,
La profundidad de los cráteres de las bombas,
Árboles de jaca destrozados, apenas floreciendo,
Casas que suben desde las profundidades de la tierra.
Guardaré todos los rostros a los que bombas y balas
No pudieron robar su inocencia, para siempre en mi corazón.
Los ojos del hombre guardo siempre en mi corazón.
Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena
Đồng bằng, quê hương chiến đấu
Đêm nay chúng ta đi
Đêm sau còn đi nữa.
Băng qua vùng đạn lửa,
Làng tiếp theo làng,
Qua những bến đò ngang,
Những nẻo đường khét mùi xe giặc chạy.
Băng qua đồn,
Đi rồi đi mãi,
Vào sâu giữa ruột đồng bằng.
Các anh các chị nhớ chăng?
Đồng chiêm cuồn cuộn sóng.
Sông Hồng Hà như cánh tay mở rộng
Ôm hai miền đất ruộng phì nhiêu.
Bát ngát xanh màu lá mạ thân yêu,
Lòng xúc động, ứa trào nước mắt.
Ơi đồng bằng!
Quê hương chúng ta,
Lúa vàng rợp đất,
Đường làng lát gạch
Bờ tre sáng xanh.
Trăng dọi mái gianh
Mái nhà san sát.
Ngân nga điệu hát
Đò đưa, sa mạc, trống quân…
Những điệu hát quen thân
Như tự trong lòng bốc dậy.
Ơi đồng bằng!
Quê hương chúng ta,
Ruộng đất bao la
Dân cày vẫn khổ.
Bán máu, bán mồ hôi cho địa chủ,
Nhặt từng hạt lúa củ khoai,
Khổ kiếp kiếp đời đời.
Mỗi năm mùa nước lũ
Nước sông Hồng như máu đỏ chảy xuôi.
Vỡ đê! Vỡ đê!
Trống thúc đổ hồi.
Nhà cửa lúa khoai
Theo dòng nước cuốn.
Không nhà không ruộng
Dân cày còn biết đi đâu?
Người ở làng chết khổ bên nhau
Người lên phố, dãi dầu kiếp thợ.
Còn địa chủ, còn Tây,
Đời đời vẫn khổ,
Ngày lại như đêm
Nghèo lại nghèo thêm
Chết nhiều còn cứ chết.
Ôi! Mùa đông giá rét
Mùa đông 45
Hai triệu người chết đói giữa đồng bằng
Nhớ lại, lòng như dao cắt.
Ơi đồng bằng!
Quê hương chúng ta,
Căm thù vót sắc,
Căm thù khắc sâu,
Người trước ngã, có người sau
Chỉ một con đường: Cách mạng,
Đây đồng bằng
Quê hương tháng Tám.
Cờ đỏ sao vàng
Trên chợ, trên sông, trên phố, trên làng,
Như ánh mặt trời cháy đỏ.
Cả đồng bằng
Ngửng đầu lên hớn hở,
Hướng về tương lai.
Cách mạng là đây,
Hạnh phúc đây rồi,
Nắm chặt bàn tay giữ lấy.
Đêm nay chúng ta đi
Đêm sau còn đi mãi
Qua những vùng lửa cháy
Vào sâu giữa ruột đồng bằng,
Vào sâu trong những xóm làng
Mái rạ, lều tre đổ nát.
Đêm đêm từng tràng đại bác
Từ trong bốt giặc,
Dội về xóm thôn,
Những bà mẹ bế con
Chạy Tây càn cực nhọc.
Những bé em gào khóc
Trong quán lạnh bên đường.
Mỗi tấc ruộng bờ nương
Mỗi gốc cây hòn đá
Đều nói lên tất cả
Tội ác của quân thù.
Nói mãi đến nghìn thu
Vẫn còn chưa hả,
Bốt Đởm, Cầu Bo, Quỳnh Lang, Phương Xá
Nhắc tên lên, cũng đủ ghê người.
Nhắc tên! Máu bỗng trào sôi,
Gan ruột tím bầm căm giận.
Ôi đồng bằng!
Quê hương anh dũng.
Ngày đêm không ngớt súng
Bộ đội ta công đồn.
Vút tiếng mìn vút lại tiếng bom
Nổ trên đường cái.
Những con đường nát mình phá hoại
Những chiếc cầu mặt gác xuống lòng sông
Những hầm ngầm, những chiến lũy giao thông
Như hang chuột chạy dài dưới đất.
Mỗi mảnh ruộng
Mỗi góc hầm bí mật,
Những bóng người du kích hiện lên
Người dân cày địch hậu ngày đêm
Cầm giáo mác
Giữ gin xóm mạc.
Đây đồng bằng lúa vờn xanh bát ngát
Vùng căn cứ chúng ta
Hai bờ sông Hồng Hà
Như vành cung rộng mở.
Ta thọc sâu vào ruột gan chúng nó
Phá vỡ vòng đai.
Làng xóm lại phục hồi
Lúa mọc lên đồng chiêm ngập nước.
Dân cày ta
Bàn tay thay cuốc,
Vai người thay trâu,
Nắm chặt tay nhau
Giữ làng chiến đấu.
Đông bằng ta
Thịt da còn rớm máu.
Nhưng thép luyện tinh thần.
Giặc càn đi quét lại quanh năm
Vùng căn cứ vẫn như đồng như thép.
Chúng ta về đồng bằng
Giữa những đêm trăng
Mùa đông lạnh buốt
Từng đoàn dân công cuộn đi như nước
Vượt sông Hồng Hà
Từng đoàn bộ đội vào ra
Lá rung rinh đầu súng.
Ôi đồng bằng anh dũng
Đồng bằng quê hương mến yêu.
Trên mảnh đất phì nhiêu,
Bên những tấm lòng phơi phới,
Đều nghe rõ ngàn muôn tiếng nói:
Giải phóng quê hương!
Giải phóng đồng bằng!
Bao giờ trở lại
Các anh đi
Ngày ấy đã lâu rồi
Xóm làng tôi còn nhớ mãi
Các anh đi
Bao giờ trở lại
Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong
Làng tôi nghèo
Nho nhỏ bên sông
Gió bấc lạnh lùng
Thổi vào mái rạ
Làng tôi nghèo
Gió mưa tơi tả
Trai gái trong làng vất vả ngược xuôi
Các anh về mái ấm nhà vui
Tiếng hát câu cười
Rộn ràng xóm nhỏ
Các anh về tưng bừng trước ngõ
Lớp đàn em hớn hở theo sau
Mẹ già bịn rịn áo nâu
Vui đàn con nhỏ rừng sâu mới về
Từ lưng đèo
Dốc núi mù che
Các anh về
Xôn xao làng tôi bé nhỏ
Nhà lá đơn sơ
Nhưng tấm lòng rộng mở
Nồi cơm nấu dở
Bát nước chè xanh
Ngồi vui kể chuyện tâm tình bên nhau
Anh giờ đánh giặc nơi đâu
Chiềng Vàng, Vụ Bản, hay vào Trị Thiên
Làng tôi thắng lợi vụ chiêm
Lúa thêm xanh ngọn, khoai lên thắm vồng
Giảm tô hai vụ vừa xong
Đêm đêm ánh đuốc dân công rực đường
Dẫu rằng núi gió đèo sương
So anh máu nhuộm chiến trường thấm chi
Bấm tay tính buổi anh đi
Mẹ thường vẫn nhắc: biết khi nào về ?
Lúa xanh xanh ngắt chân đê
Anh đi là để giữ quê quán mình
Cây đa, bến nước, sân đình
Lời thề nhớ buổi mít tinh lên đường
Hoa cau thơm ngát đầu nương
Anh đi là giữ tình thương dạt dào
Các anh đi
Khi nào trở lại
Xóm làng tôi
Trai gái vẫn chờ mong
Chờ mong chiến dịch thành công
Xác thù chất núi bên sông đỏ cờ
Anh đi chín đợi mười chờ
Tin thường thắng trận, bao giờ về anh ?
Ánh đèn quê hương
Đường dài vun vút xe đêm
Trên xe bỗng thấy ánh đèn quê hương.
Mắt trông còn vướng bụi đường
Mà sao ánh lửa đã vương trong lòng.
Xe đi, ánh lửa đi cùng
Hàng cây lá ngọn, gió đồng hương bay.
Bộn bề công tác hôm nay .
Trên xe chỉ đúng giơ tay vẫy chào.
Ánh đèn thấp thoáng ánh sao
Lòng mang ánh lửa đã bao năm rồi.
Chân đi khắp biển cùng trời
Bao nhiêu lửa đỏ, bao người mến yêu
Quê hương ơi! ánh lửa chiều
Lòng sao khơi dậy bao điều nhớ mong.
Nhịp nhàng khung dệt đêm đông
Đèn soi mắt mẹ, lửa hồng má con;
Trâu về bước nặng đường thôn
Ngọn đèn mới thắp, nồi cơm đang vần;
Ánh đèn lớp học bình dân
Mênh mông trang sách những vần ngân nga;
Đèn treo lơ lửng gian nhà
Chưa xong hội nghi tiếng gà gáy ran.
Bờ tre ngả bóng đầu làng
Biết bao năm tháng đã mang ánh đèn.
Xe đi, nhưng mắt vẫn nhìn
Lung linh ánh lửa, cây đêm chập chùng
Xe đi, ánh lửa đi cùng
Còn mang theo cả gió đồng quê hương.
1957
No hay comentarios:
Publicar un comentario