sábado, 8 de agosto de 2015

NGUYỄN VIỆT CHIẾN [16.721] Poeta de Vietnam


NGUYỄN VIỆT CHIẾN

Nació el 8 de octubre 1952 en Thach Eso, Ha Tay en Hanoi hoy, Vietnam. Escribió poemas en el periódico desde el noveno grado - primer taller de escritura en Hanoi en 1969. Entre los años 1970 a 1974, estuvo en el ejército, después de la desmovilización estudió geología en la universidad.
Desde 1992 hasta la actualidad, es corresponsal periódico de Thanh Nien Hanói.
Asociación de afiliación Vietnam Escritores y la Asociación de Periodistas de Vietnam; Miembro del Comité Ejecutivo de la Asociación de Escritores de Hanoi (2011-2015) y la Unión de Hanoi de la Cultura y el Arte (2011-2015).

Obras publicadas:

- Mưa lúc không giờ (thơ - 1992)
- Ngọn sóng thời gian (thơ - 1998)
- Cỏ trên đất (thơ - 2000)
- Những con ngựa đêm (thơ - 2003)
- Thơ Việt Nam tìm tòi & cách tân (phê bình - 2007)
- Trăng và thơ đọc chậm (thơ - 2012).




Hierba

Hierba de la tierra y bayoneta a tierra,
Libros de la invasión punzados con muchos clavos
Que caen desde los ojos y queman desde los ojos,
La lágrima negra, el profundo fuego de la indignación.

Pero la hierba verde no es sólo lágrimas,
Líneas de verde vertidas sobre el mundo
Y molidas por ruedas dentadas
De tanques y cañones autopropulsados

De gente que cayó durante la guerra,
La hierba ahora, profundamente en sus pechos.
Incluso antes que las bayonetas y las botas puntudas,
Ellos pisaron la hierba con pasos fieros.

A aquellos que descansan en paz en sus tumbas,
La hierba de la cuarta temporada canta su arrullo verde.
A aquellos que no tienen que yacer allí,
No traigas dolor, ni siquiera una brizna de hierba

Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena



Trăng nơi đáy sâu

Ta đã chìm rất sâu trong một đêm mưa lớn
không ai đến được với ta
nhưng ở nơi tận cùng của đáy sâu kia
ta vẫn nhận thấy hơi ấm của em
vị mằn mặn của ánh trăng
thứ ánh sáng không bị huỷ hoại
                        bởi bùn tối của những đáy sâu
và có lẽ ta đã được cứu thoát bởi chất muối ấy


*

riêng điều bí mật này
em không được biết
ánh trăng không được biết
bóng đêm không được biết
cả những đáy sâu cũng không được biết

khi ta lạc đường trong biển tối cô đơn
chỉ có trăng mới làm ta ấm được
người đàn bà trong suốt
đã đi vào trăng


*

khi nàng dốc cạn chiếc bình
                        hy vọng của trăng cho ta thở
thì ta lại ngủ

khi nàng vén chiếc cửa lụa khao khát của trăng
để đón ta vào
thì ta còn xạc xào thao thức ở đâu đâu

khi nàng tưới đẫm ta bằng những giọt trăng lành
để cho bụi bặm tăm tối trôi khỏi cuộc đời ta
thì ta lại trốn vào những câu thơ mộng mỵ


*

nhưng ở nơi tận cùng của đáy sâu kia
ta vẫn nhận thấy hơi ấm của em
vị mằn mặn của ánh trăng
thứ ánh sáng không bị huỷ hoại
                     bởi bùn tối của những đáy sâu






Trăng soi trong đá

Tiếng hát đều đều và chậm rãi của người
     như nước chảy trong đá
     như trăng soi trong đá
     như máu thức trong đá

Tiếng hát mệt mỏi và tha thiết của người
     đưa bàn tay lại gần một bàn tay
     đưa ánh mắt lại gần một ánh mắt
     đưa con người lại gần một con người

Và chúng ta cất bước trên đường thẳm
   trong tiếng hát đều đều và chậm rãi
   trong tiếng hát thiết tha và mệt mỏi
   hướng đến những ngôi chùa trong đêm
  
      nơi máu thức trong đá
      nơi trăng soi trong đá
      nơi nước chảy trong đá






Trăng Nguyễn Du

Lẳng lặng
           trần gian ở lại
                           mắt em xưa
tiếng nhạc sỏi trong mưa
chầm chậm con đường cũ

những hoa không nở
                người chẳng nhớ
những hoa nở rồi
                người cũng quên


*

Một bông trăng
nở giữa chiếc bình đêm
chầm chậm đến sáng
                                   nở thành ban mai

trước mùa trăng sinh nở
Nguyễn Du là người mộng du ân ái cùng trăng
nhưng chưa đến nửa đêm thì Truyện Kiều đã viết xong
và Nguyễn Du đạp mây trở về sông Tiền Đường

để lại một bông trăng
thức trong chiếc bình đêm
thức chầm chậm đến sáng thì nở
nở thành một nàng Kiều trắng trong
giữa vẩn đục cõi người


*

Khi Nguyễn Du về
bụi giang hồ
trần thế vẫn như xưa
ông lại gặp trăng đêm
nở một đoá sững sờ

nở chầm chậm đến sáng thì tắt
nở chầm chậm đến sáng rồi chết






Thời gian của trăng

  Lần tay. Mở áo đêm ra
Trăng. Nhu nhú sáng. Như là trăng non
     Đặt môi lên. Đỉnh trăng tròn
Để hư vô. Biết ta còn. Chiêm bao

    Trăng đầy đặn. Trăng hư hao
Tuổi trăng lồ lộ. Trong dào dạt. Đêm
    Mở rằm. Trăng đến rước. Em
Con thuyền vô định. Ngủ quên. Bên trời
    Ta. Là ngọn gió. Mải chơi
Hái trăng đêm. Rải. Khắp đồi núi. Xa

    Những sông. Không bóng thuyền qua
Mượn trăng. Ta đón em ra. Sông này
    Những rừng. Trụi lá. Không cây
Em. Gieo trăng xuống. Cho. Đầy ắp trăng
    Một mai. Trăng. Mọc thành măng
Để sông gặp núi. Để giăng gió còn

   Biển. Ngoài kia. Sóng đã mòn
Mà anh. Vẫn sóng. Đang còn hư vô
   Trăng ngoài kia. Đã san hô
Mà trăng anh. Vẫn. Còn mờ mịt trăng

   Cát ngoài kia. Đã vĩnh hằng
Mà anh. Vẫn cát. Đang. Dằng dặc xe
   Suốt đêm. Sóng. Biển. Nằm nghe
Chuyện. Trăng và cát. Kể đi. Dã tràng






No hay comentarios:

Publicar un comentario