NGUYỄN VIỆT CHIẾN
Nació el 8 de octubre 1952 en Thach Eso, Ha Tay en Hanoi hoy, Vietnam. Escribió poemas en el periódico desde el noveno grado - primer taller de escritura en Hanoi en 1969. Entre los años 1970 a 1974, estuvo en el ejército, después de la desmovilización estudió geología en la universidad.
Desde 1992 hasta la actualidad, es corresponsal periódico de Thanh Nien Hanói.
Asociación de afiliación Vietnam Escritores y la Asociación de Periodistas de Vietnam; Miembro del Comité Ejecutivo de la Asociación de Escritores de Hanoi (2011-2015) y la Unión de Hanoi de la Cultura y el Arte (2011-2015).
Obras publicadas:
- Mưa lúc không giờ (thơ - 1992)
- Ngọn sóng thời gian (thơ - 1998)
- Cỏ trên đất (thơ - 2000)
- Những con ngựa đêm (thơ - 2003)
- Thơ Việt Nam tìm tòi & cách tân (phê bình - 2007)
- Trăng và thơ đọc chậm (thơ - 2012).
Hierba
Hierba de la tierra y bayoneta a tierra,
Libros de la invasión punzados con muchos clavos
Que caen desde los ojos y queman desde los ojos,
La lágrima negra, el profundo fuego de la indignación.
Pero la hierba verde no es sólo lágrimas,
Líneas de verde vertidas sobre el mundo
Y molidas por ruedas dentadas
De tanques y cañones autopropulsados
De gente que cayó durante la guerra,
La hierba ahora, profundamente en sus pechos.
Incluso antes que las bayonetas y las botas puntudas,
Ellos pisaron la hierba con pasos fieros.
A aquellos que descansan en paz en sus tumbas,
La hierba de la cuarta temporada canta su arrullo verde.
A aquellos que no tienen que yacer allí,
No traigas dolor, ni siquiera una brizna de hierba
Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena
Trăng nơi đáy sâu
Ta đã chìm rất sâu trong một đêm mưa lớn
không ai đến được với ta
nhưng ở nơi tận cùng của đáy sâu kia
ta vẫn nhận thấy hơi ấm của em
vị mằn mặn của ánh trăng
thứ ánh sáng không bị huỷ hoại
bởi bùn tối của những đáy sâu
và có lẽ ta đã được cứu thoát bởi chất muối ấy
*
riêng điều bí mật này
em không được biết
ánh trăng không được biết
bóng đêm không được biết
cả những đáy sâu cũng không được biết
khi ta lạc đường trong biển tối cô đơn
chỉ có trăng mới làm ta ấm được
người đàn bà trong suốt
đã đi vào trăng
*
khi nàng dốc cạn chiếc bình
hy vọng của trăng cho ta thở
thì ta lại ngủ
khi nàng vén chiếc cửa lụa khao khát của trăng
để đón ta vào
thì ta còn xạc xào thao thức ở đâu đâu
khi nàng tưới đẫm ta bằng những giọt trăng lành
để cho bụi bặm tăm tối trôi khỏi cuộc đời ta
thì ta lại trốn vào những câu thơ mộng mỵ
*
nhưng ở nơi tận cùng của đáy sâu kia
ta vẫn nhận thấy hơi ấm của em
vị mằn mặn của ánh trăng
thứ ánh sáng không bị huỷ hoại
bởi bùn tối của những đáy sâu
Trăng soi trong đá
Tiếng hát đều đều và chậm rãi của người
như nước chảy trong đá
như trăng soi trong đá
như máu thức trong đá
Tiếng hát mệt mỏi và tha thiết của người
đưa bàn tay lại gần một bàn tay
đưa ánh mắt lại gần một ánh mắt
đưa con người lại gần một con người
Và chúng ta cất bước trên đường thẳm
trong tiếng hát đều đều và chậm rãi
trong tiếng hát thiết tha và mệt mỏi
hướng đến những ngôi chùa trong đêm
nơi máu thức trong đá
nơi trăng soi trong đá
nơi nước chảy trong đá
Trăng Nguyễn Du
Lẳng lặng
trần gian ở lại
mắt em xưa
tiếng nhạc sỏi trong mưa
chầm chậm con đường cũ
những hoa không nở
người chẳng nhớ
những hoa nở rồi
người cũng quên
*
Một bông trăng
nở giữa chiếc bình đêm
chầm chậm đến sáng
nở thành ban mai
trước mùa trăng sinh nở
Nguyễn Du là người mộng du ân ái cùng trăng
nhưng chưa đến nửa đêm thì Truyện Kiều đã viết xong
và Nguyễn Du đạp mây trở về sông Tiền Đường
để lại một bông trăng
thức trong chiếc bình đêm
thức chầm chậm đến sáng thì nở
nở thành một nàng Kiều trắng trong
giữa vẩn đục cõi người
*
Khi Nguyễn Du về
bụi giang hồ
trần thế vẫn như xưa
ông lại gặp trăng đêm
nở một đoá sững sờ
nở chầm chậm đến sáng thì tắt
nở chầm chậm đến sáng rồi chết
Thời gian của trăng
Lần tay. Mở áo đêm ra
Trăng. Nhu nhú sáng. Như là trăng non
Đặt môi lên. Đỉnh trăng tròn
Để hư vô. Biết ta còn. Chiêm bao
Trăng đầy đặn. Trăng hư hao
Tuổi trăng lồ lộ. Trong dào dạt. Đêm
Mở rằm. Trăng đến rước. Em
Con thuyền vô định. Ngủ quên. Bên trời
Ta. Là ngọn gió. Mải chơi
Hái trăng đêm. Rải. Khắp đồi núi. Xa
Những sông. Không bóng thuyền qua
Mượn trăng. Ta đón em ra. Sông này
Những rừng. Trụi lá. Không cây
Em. Gieo trăng xuống. Cho. Đầy ắp trăng
Một mai. Trăng. Mọc thành măng
Để sông gặp núi. Để giăng gió còn
Biển. Ngoài kia. Sóng đã mòn
Mà anh. Vẫn sóng. Đang còn hư vô
Trăng ngoài kia. Đã san hô
Mà trăng anh. Vẫn. Còn mờ mịt trăng
Cát ngoài kia. Đã vĩnh hằng
Mà anh. Vẫn cát. Đang. Dằng dặc xe
Suốt đêm. Sóng. Biển. Nằm nghe
Chuyện. Trăng và cát. Kể đi. Dã tràng
No hay comentarios:
Publicar un comentario