LÊ ANH XUÂN
Lê Anh Xuân, 1940 - 1968, fue un poeta de Vietnam. Se le concedió a título póstumo el Premio Estatal Estado de Vietnam y el título de Héroe de las Fuerzas Armadas del Pueblo por sus contribuciones.
Su verdadero nombre es Ca Le Hien, nacido el 5 de junio de 1940 en la ciudad de Ben Tre, domicilio en la comuna, Tan Thanh Binh, Distrito Cay (ahora en el distrito de Mo Cay Bac), provincia de Ben Tre. Su padre era un profesor de Ca Van Thinh, como investigador literario. Los miembros de su familia son maestros y artistas conocidos. Su hermano es músico Ca Le Thuan, ex director de Arte Dramático II Ho Chi Minh City, hermano Ca Le Thang pintor.
Ahondó la poesía desde la infancia, a los 12 años comenzó a aprender la cultura, aprender a imprimir en casa Trinh Dinh Trong Nam Ministerio de Departamento de Educación en la zona de guerra.
En 1954, siguió a la familia al Norte.
Lê Anh Xuân murió en fecha 21 de mayo de 1968 en Quang Phuoc Aldea, Phuoc Loi, Distrito Duoc, provincia de Long An, en una incursión militar de Estados Unidos.
Obras
Tiếng gà gáy (thơ, 1965)
Không có đâu như ở miền Nam (thơ, in chung, 1968)
Nguyễn Văn Trỗi (trường ca, 1968)
Hoa dừa (thơ, 197l)
Thơ Lê Anh Xuân (tuyển thơ, 198l)
Giữ đất (tập văn xuôi-1966)
La posición de Vietnam
Te caíste en la pista en Tan Son Nhat
Pero te paraste nuevamente, descansando el rifle sobre el
helicóptero,
Y moriste disparando.
Al verte, los enemigos en pánico rogaron tu rendición.
Algunos se arrojaron a tus pies para evadir las balas,
Porque aunque muerto, tu coraje
Se mantuvo firme, inequívocamente disparaba, al ataque.
¿Cuál es tu nombre querido hermano?
Perduras como un baluarte de bronce,
Como tus sandalias que han pisado tantos cuerpos americanos
Pero siguen siendo de un color brillante y simple.
No hay imagen, ni hay línea de dirección,
No dejaste nada por ti mismo antes de partir,
Sólo la posición de Vietnam esculpida en el siglo.
Eres el soldado de la Liberación Nacional.
Tu nombre se ha convertido en el nombre del país.
Oh soldado de Liberación Nacional,
Desde tu posición en la pista de Tan Son Nhat,
La nación asciende con la inmensidad de la primavera.
Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena
Dừa ơi
Tôi lớn lên đã thấy dừa trước ngõ
Dừa ru tôi giấc ngủ tuổi thơ
Cứ mỗi chiều nghe dừa reo trước gió
Tôi hỏi nội tôi: "Dừa có tự bao giờ?"
Nội nói: "Lúc nội còn con gái
Đã thấy bóng dừa mát rượi trước sân
Đất này xưa đầm lầy chua mặn
Đời đói nghèo cay đắng quanh năm"
Hôm nay tôi trở về quê cũ
Hai mươi năm biết mấy nắng mưa
Nội đã khuất rồi xanh rì đám cỏ
Trên thân dừa vết đạn xác xơ.
Dừa ơi dừa! Người bao nhiêu tuổi
Mà lá tươi xanh mãi đến giờ
Tôi nghe gió ngàn xưa đang gọi
Xào xạc lá dừa hay tiếng gươm khua.
Ôi có phải nhà thơ Đồ Chiểu
Từng ngâm thơ dưới rặng dừa này
Tôi tưởng thấy nghĩa quân đuổi giặc
Vừa qua đây còn lầy lội đường dây.
Tôi đứng dưới hàng dừa cao vút
Cạnh hàng dừa tơ lá mướt xanh màu
Những công sự còn thơm mùi đất
Cạnh những chiến hào chống Pháp năm nao.
Vẫn như xưa vườn dừa quê nội
Sao lòng tôi vẫn thấy yêu hơn
Ôi thân dừa đã hai lần máu chảy
Biết bao đau thương, biết mấy oán hờn.
Dừa vẫn đứng hiên ngang cao vút
Lá vẫn xanh rất mực dịu dàng
Rễ dừa bám sâu vào lòng đất
Như dân làng bám chặt quê hương.
Dừa bị thương dừa không cúi xuống
Vẫn ngẩng lên ca hát giữa trời
Nếu ngã xuống dừa ơi không uổng
Dừa lại đứng lên thân dựng pháo đài.
Lá dừa xanh long lanh ánh nắng
Theo đoàn quân thành lá nguỵ trang
Nếu rụng xuống dừa ơi không uổng
Dừa lại cháy lên ánh đuốc soi đường.
Đất quê hương nát bầm vết đạn
Đã nuôi dừa năm tháng xanh tươi
Ôi có phải dừa hút bao cay đắng
Để trổ ra những trái ngọt cho đời.
Nghe vườn dừa rì rào tiếng nhạc
Lòng nao nao tôi nhớ nội xiết bao
Tuổi thơ xưa uống nước dừa dịu ngọt
Tôi biêt đâu thuở chua xót ban đầu.
Tôi ngước nhìn mùa xuân nắng dọi
Bốn mặt quê hương giải phóng rồi
Tôi bỗng thấy nội tôi trẻ lại
Như thời con gái tuổi đôi mươi
Như hàng dừa trước ngõ nhà tôi.
(1-1966)
Dáng đứng Việt Nam
Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhứt
Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng
Và Anh chết trong khi đang đứng bắn
Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.
Chợt thấy Anh, giặc hốt hoảng xin hàng
Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn
Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm
Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công
Anh tên gì hỡi Anh yêu quý
Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng
Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ
Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong.
Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ
Anh chẳng để lại gì cho riêng Anh trước lúc lên đường
Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ:
Anh là chiến sỹ Giải phóng quân.
Tên Anh đã thành tên đất nước
Ôi anh Giải phóng quân!
Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhứt
Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân
Qua Ấp Bắc
Tôi đi trên cánh đồng Ấp Bắc
Đất dưới chân thơm mát, phì nhiêu
Chiều Ấp Bắc trong veo
Đồng Ấp Bắc một màu xanh ngắt
Ôi Ấp Bắc thành đồng bất khuất
Chiến công đã vang khắp địa cầu
Mà mảnh đất này giản dị biết bao
Bông súng dưới ao nở xoè cánh quạt
Những rặng trâm bầu, những hàng bình bát
Những đám mạ xanh, những liếp mía vàng
Và đâu đây mùi bùn đất Việt Nam
Tất cả đã trở thành bất tử
Từng ngọn gió đã thổi vào lịch sử
Tôi tưởng nơi đây tan nát còn đâu
Lạ lùng thay lúa vẫn tươi màu
Lúa trùng điệp vây quanh đồn giặc
Lúa bất khuất như người bất khuất
Phù sa đã lấp những hố bom
Và cả những vết thương của tâm hồn
Quân giặc đêm ngày vẫn giội bom, trút đạn
Vì sao đất này vẫn xanh màu cuộc sống?
Tôi bước đi lòng thấy bâng khuâng
Anh nằm ở đâu? Hỡi anh Đừng
Chỗ các anh nằm đơn sơ nấm đất
Bát ngát bốn bên rì rào lúa hát
Bóng hàng tre che mát nghĩa trang
Buổi chiều dâng những hoa nắng tươi vàng
Thôi tôi đi nhé! Chiều sắp tắt
Đường còn dài hẹn mai lại gặp
Tôi quay nhìn giữa đồng lúa mênh mông
Mộ của các anh sao bỗng giống lạ lùng
Những công sự bên đường mới đắp
Ngôi sao chiều cháy rực trời Ấp Bắc
10-1966
No hay comentarios:
Publicar un comentario