TỐ HỮU
Su verdadero nombre es Kim Nguyen Thanh (04 de octubre de 1920 - 09 de diciembre de 2002), nació en el pueblo de Phu Lai, Quang Tho comuna hoy, distrito de Quang Dien, provincia de Thua Thien-Hue. Él es un autor de importante posición, un poeta típico de la poesía revolucionaria de Vietnam. Ha ocupado importantes cargos en el sistema político de Vietnam como miembro del Buró Político y Secretario del Comité Central del Partido Comunista de Vietnam, diputado Presidente de la Primera del Consejo de Ministros de la República de Asuntos Vietnam socialista.
OBRAS:
Từ ấy (1946)
Việt Bắc (1954)
Gió lộng (1961)
Ra trận (1962-1971)
Máu và Hoa (1977)
Một tiếng đờn (1992)
Ta với ta (1999)
Xây dựng một nền văn nghệ lớn xứng đáng với nhân dân ta, thời đại ta (tiểu luận, 1973)
Cuộc sống cách mạng và văn học nghệ thuật (tiểu luận, 1981)
Madre Suot
Escuchemos el relato de la madre,
Cuán caliente la colina de arena, la luz del mediodía en Quang
Binh.
La madre dice: mi pueblo es Bao Ninh,
Cuán ilimitado el río, cómo naufraga el barco.
Día a día afuera el agua cae, sube la marea.
Ella vivió una vida difícil desde los nueve o diez años,
Creció, fue sirvienta para muchos.
Después de doce años, su primavera ya había pasado.
Al casarse, tuvo problemas con los alumbramientos:
Ocho veces embarazada, abortó algunas veces; ¡qué lástima!
Siente un gran amor por sus padres,
Por su esposo, por sus hijos y ella misma, conmovedoramente.
Ahora nuestros ríos nos pertenecen. El barco
Va al mar a pescar, entra y sale.
Ahora el mar es ancho, el cielo es alto,
Incluso peces y camarones son felices; ¡Qué corazón no es
primavera!
Su marido sigue a un amigo para “unirse a las tropas”
Entonces ¿cómo puede ella no unirse al equipo de “Alerta”?
Una mano para guiar el barco que cruza
En el puerto de Nhat Le, llevando tropas día y noche,
Sin miedo a los aviones y a las olas o al viento.
Derrotamos a los franceses; ¡contra los estadounidenses no
podemos fallar!
A pesar de su avanzada edad,
Guiando el barco, ella hará todo lo posible.
Al levantar su cabeza, su cabello ondula;
El viento lo mueve como olas, arrojando el mar hasta la costa blanca.
Qué coraje, querida madre.
La madre dice: Salvemos a nuestro propio país, ¿por qué esperar?
Ya no es ninguna muchacha,
Sesenta años de edad, le queda un talento, remar el bote.
Aviones disparan mañana y mediodía.
Mañana y mediodía seguiré remando el bote....
Pegado a su oído, le pregunto por curiosidad:
¿Por qué tu marido te permite remar?
La madre ríe: Yo insisto; él cede.
Él se atreve a ir al mar; ¡yo no tomo esos riesgos!
Una vez uno lo escucha él está contento.
Cuando salgo, él me sigue al río y dice:
“Cuidado con el gran viento, la gran ola;
Aquí está la manta azul, cúbrete bien”.
¡Qué alegría, qué historia de gratitud;
Las dunas de Quang Binh podrían bailar al sol del mediodía...
Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena
Mồ côi
Con chim non rũ cánh
Đi tìm tổ bơ vơ
Quanh nẻo rừng hiu quạnh
Lướt mướt dưới dòng mưa.
Con chim non chiu chít
Lá động khóc tràn trề
Chao ôi buồn da diết
Chim ơi biết đâu về.
Gió lùa mưa rơi rơi
Trên nẻo đường sương lạnh
Đi về đâu em ơi
Phơi thân tàn cô quạnh!
Em sưởi trong bàn tay
Cho lòng băng giá ấm
Lìa cành lá bay bay
Như mảnh đời u thảm!
Con chim non không tổ
Trẻ mồ côi không nhà
Hai đứa cùng đau khổ
Cùng vất vưởng bê tha
Rồi ngày kia rã cánh
Rụi chết bên đường đi...
Thờ ơ con mắt lạnh
Nhìn chúng: "Có hề chi!".
Huế, tháng 10-1937
Hai đứa trẻ
Tôi không dám mời anh đi xa lạ
Tìm đau thương trong xã hội điêu tàn
Kể làm sao cho hết cảnh lầm than
Lúc trái ngược đã tràn đầy tất cả!
Này đây anh một bức tranh gần gũi:
Nó thô sơ? Có lẽ. Nhưng trung thành.
Nó tầm thường? Nhưng chính bởi hồn anh
Chê chán kẻ bị đời vui hắt hủi.
Hai đứa bé cùng chung nhà một tuổi
Cùng ngây thơ, khờ dại, như chim con
Bụi đời dơ chưa vẩn đục hồn non
Cùng trinh tiết như hai tờ giấy mới.
Ồ lạ chửa! Đứa xinh tròn mũm mĩm
Cười trong chăn và nũng nịu nhìn me.
Đứa ngoài sân, trong cát bẩn bò lê
Ghèn nhầy nhụa, ruồi bu trên môi tím!
Đứa chồm chập vồ ôm li sữa trắng
Rồi cau mày: "Nhạt lắm! Em không ăn!".
Đứa ôm đầu, trước cổng đứng treo chân
Chờ mẹ nó mua về cho củ sắn!
Đứa ngây ngất trong phòng xanh mát rượi
Đây ngựa nga, đây lính thổi kèn Tây.
Đứa kia thèm, giương mắt đứng nhìn ngây
Không dám tới, e đòn roi, tiếng chưởi!
Vẫn chưa hết những cảnh đời đau khổ
Nhưng kể làm chi nữa, bạn lòng ơi!
Hai đứa kia như sống dưới hai trời
Chỉ khác bởi không cùng chung một tổ:
Đứa vui sướng là đứa con nhà chủ
Và đứa buồn, con mụ ở làm thuê.
(Huế, tháng 10-1937)
Dửng dưng
Du khách bảo đây vườn kín đáo
Với hương dìu dịu, ý ngàn xưa
Thời mây xanh nhạt màu hư ảo
Đây xứ mơ màng, đây xứ thơ...
Cô gái thẫn thờ vê áo mỏng,
Nghiêng nghiêng vành nón dáng chờ ai
Ven bờ sông phẳng con đò mộng
Lả lướt đì về trong gió mai...
Thành quách trăm năm sầm mặt lạnh
Ngọn cờ uể oải vật vờ lay
Lâu đài đường bệ màu kiêu hãnh
Áo gấm hài nhung cánh phượng bay.
Ta nện gót trên đường phố Huế
Dửng dưng không một cảm tình chi
Không gian sặc sụa mùi ô uế
Mà nước dòng Hương mãi cuốn đi...
Ý chết đã phơi vàng héo úa
Mùa thu lá sắp rụng trên đường
Mơ chi ảo mộng ngàn xưa nữa ?
Cây hết thời xanh đến tiết vàng!
Ai tưởng ngàn năm nương đất ấy
Mầm non thêm nhựa, lá thêm tươi
Ôi mỉa mai hồn ta chỉ thấy
Rêu hèn sống gửi nhánh khô thôi.
Ai tưởng thiên đường sao nhấp nhánh
Tài hoa tinh kết, ngọc long lanh
Ta chỉ thấy nơi đây mồ lạnh
Chôn linh hồn đắm đuối hư danh.
Huế, tháng 5-1938
No hay comentarios:
Publicar un comentario