lunes, 10 de agosto de 2015

TRẦN VĂN DẦN [16.747] Poeta de Vietnam


TRẦN VĂN DẦN ó TRẦN DẦN 

(1926–1997)
Poeta vietnamita y escritor que apoyó la causa nacionalista de la República Democrática de Vietnam y publicó tal vez la novela de guerra más importante de la guerra de Indochina en cualquier idioma. Nacido en una familia rica en la provincia de Nam Dinh, Tran Dan estudió literatura francesa en la escuela secundaria, donde descubrió la obra de Baudelaire, Verlaine y los simbolistas. Según Georges Boudarel , Tran Dan comenzó a escribir en serio durante la Segunda Guerra Mundial, pero estaba menos interesado en la política que en el arte por sí misma. Poco más se sabe de sus actividades durante la guerra o durante los eventos que llevaron a la República Democrática de Vietnam (RDV) en vigor en septiembre de 1946. En Nam Dinh a finales de 1946, se unió a un grupo de poetas simbolistas para publicar el primer número de su revista literaria, Dia nguc / Infierno. Manifiesto fundacional: "Somos una banda de vagabundos, sin una luz o un lugar, reencarnados accidentalmente en el mismo momento en el que las estrellas se están desvaneciendo".

Su vida en verdad su perspectiva sobre el arte cambió, sin embargo, con el estallido de la guerra a gran escala en 19 de diciembre 1946. A diferencia de algunos de sus amigos, Tran Dan no sólo optó por apoyar la DRV contra el retorno del colonialismo francés, sino que también acordó poner su arte al servicio de la causa nacionalista del partido. El Viet Minh lo puso a trabajar atendiendo a cuestiones de información y propaganda. A principios de 1948, se unió al ejército en Son La provincia y se convirtió en miembro del Partido Comunista de Indochina ( ICP) en agosto de ese año. Trabajó en la propaganda dentro del ejército en Son La y participó en la creación del Grupo de Río Negro literaria y artística y contribuyó regularmente a su revisión. Pronto destacó por la originalidad de sus escritos sobre la guerra y también sus dibujos de soldados (algunos de los cuales provocó críticas de cuadros políticos incapaces de entender su estilo cubista). Después de someterse a cuadros de rectificación en 1951, fue ascendido a la comisión encargada de las cuestiones artísticas para el ejército. Cuando esto no funcionó, se trasladó a la revista el ejército del pueblo y cubrió varias de las grandes batallas en el norte. A finales de 1953, se ofreció como voluntario para ir a Dien Bien Phu. Tran Dan viajó con el compositor Do Nhuan y el pintor Para Ngoc Van.

Su trabajo no se rehabilitó, como el de Hung Feng, hasta la década de 1980.




Aquí, Viet Bac (Fragmento)


... Aquí -
 Nos hemos movido aquí y allá
 Nueve primaveras, estaciones quemadas por el fuego,
Balas como moscas
 Enjambre sobre
 Nuestros pies al caminar.
Aquí -
 Compartimos entre nosotros
 Retazos de camisas de algodón.
Dorminos
 Sobre las mismas
 Esteras de tierra.
Aquí-
 Al norte
 Al este,
Solitario
 El horizonte
 El rifle
Cada noche
 Me despedí
 De una patria.


*


Aquí -
 Nos levantamos
 En la dificultad
Dos manos vacías
 Conspiran
 Continuamente
Para crear
 El país de hoy
Correctamente
La cuna de Viet Bac
 Nos sostiene en sus brazos
A través de todos
 Los meses y años de fuego
Nos nutre
 Nutre la revolución
 Hasta que ésta madura.
Nos hicimos amigos
 Del ñame,
 La yuca,
Amigos del
 Pájaro insomne.
 Antiguo bosque,
Amigo.
 Río Da
 Río Ma
 Lleva todas las estrellas.
Amigo en cuevas, en las montañas
 Hojas amarillas cayeron
 Ansiosamente.


*


Aquí-
 Evitamos
 Lo salino.
De luto por
 Niños que cargan el pecado de sus padres.
Oh futuro,
 Hemos apretado nuestros estómagos
86
 Por ti
Nos hemos abstenido
 Como
 Se abstiene el soldado
Al llegar la
 Primavera.
 Abstente en invierno,
Abstente de los cigarrillos,
 Abstente de cada retazo de tela,
Abstente de la saciedad,
 Del calor,
 Del amor.


*


Aquí -
 Tempranas nubes
 Cuelgan alrededor
 De la niebla vespertina.
En el trono de la aldea tribal
 Un león ruge
 Hasta enronquecer.
Balas y bombas
 Dispuestas a caer
 Desde las cuatro direcciones.
Vivimos en medio
 De una peligrosa y heroica canción.


*


Juntos hacemos
 Campaña
 Sobre el largo camino polvoriento.
El mosquito venenoso;
Comparte la fiebre
 Con nosotros.
El campo de batalla
 Comparte
 La lluvia de balas y bombas.
 Cayendo
 Ellas comparten
 La madre Tierra misma,
Comparten entre sí
 Los vientos glaciales,
Comparten
 Lloviznas
 Inundaciones
 Arroz rancio
Hasta que
 Nos atrapen en un asedio enemigo,
Compartiremos de nuevo
 Las últimas balas.


*


Aquí -
 Tenemos una gran deuda
 Con el bosque,
Una deuda
 Difícil de pagar.
Viet Bac
 Nos presta
 La tierra.
Pide prestado
 Un haz de leña,
Un puñado de flechas.
Pide prestado incluso
 Cuevas profundas,
 Montañas peligrosas.
Incluso
 La canna tentadora
 El amargo bambú tierno
 Nos han alimentado.
Tenemos una deuda con
 Los vastos bosques de mirto,
Una deuda
 Con desoladas comunas tribales,
 Con tardes borrosas de neblina
 Una deuda con el ñame,
 Una deuda con los pájaros,
 Con los campos de la ladera,
Una deuda
 Con el bambú Vau
 Por escondernos
 En el profundo bosque,
Una deuda con el arroyo
 Ya sea claro
 O turbio,
Una deuda con los que han caído
 Anónimamente,
Ah siglo
 De diez mil cosas que olvidar,
 Mil cosas que recordar.
Esta deuda
 No es fácil de pagar, no lo podemos olvidar


Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena






Tôi khóc những
        chân trời
                    không 
                      có 
                                       người bay
       Lại khóc những người bay
          không có
                      chân trời







Cổng Tỉnh 

(thơ - tiểu thuyết, 1959 - 1960) 
xuất bản 1994
(trích)





Khai từ

Kỷ niệm! Đưa tôi về chốn cũ
Đừng ngại mây che từng cây số buồn rầu !
Đừng ngại mở trong lòng từng cây số nhớ thương !
Tôi đã sống đã lỡ lầm chẳng nhỏ
Trong đời tôi đã có thơ ngây
Tôi đã có đôi ngày nhỏ dại
Hãy châm man mác các dặng đèn
từ kí ức vùi sâu !
Đây có phải bụi Cửa Trường ?
Một cuống nhau chôn trạnh lòng phố mẹ ! ...
Đây có phải đường Hàng Song xanh lấm tấm sao chiều ?
Một chút sương lên... lên vừa đủ lạnh
Thôi thế là đành : tôi chẳng có ai yêu !
16 tuổi !!!
Đây là đêm
Ngoài cổng đề lao tim ... sao mọc hững hờ ...
Đây là ngày
Thời gian lặp đi lặp lại những chiều vàng vọt như nhau

17 !
Tôi nổi máu điên
Tôi chồm về ngã Bẩy
Tôi đứng lầm lầm như một cái chòi đêm

18 !
Tôi cắn chết nhiều ngày mưa
Tôi đứng xù xụ bến tàu bùn
Thì hãy lấy mùi soa đêm chùi đôi mắt khổ
Hơn là mỏi răng nhai ràu rạu vỉa hè.

19 !
Khổ to rồi! Không có công ăn việc làm trên trái đất
Tôi nhảy chồm mỗi lúc gió lên
Mau mau ! Lấy tình yêu xích tên rồ kia lại !
Kẻo nó nhẩy từ gác mười tầng
Vồ một phố đèn lên
Dĩ vãng ! ối ôi ! Sống !
Cái nghề này ai ai cũng thạo
Chỉ mỗi mình tôi không thạo mà thôi !
Tôi đã bơ vơ
Bơ vơ phải đâu là tội nhỏ
Ai ?
Ai kẻ vá may khi đứt chỉ đường tà ?
Những ngày trở trời - ai cháo lão cho tôi ?
Thế là xách va li tim đi thui thủi địa cầu

Các bạn ạ !
Tôi đã không thể thoát bơ vơ nếu không
nhờ các bạn...
Nếu không Thi-mệnh bọc đùm...
Ôi ! phố mẹ ! Để tôi về phố mẹ
Tôi về tảo mộ xó quê tôi...
Tôi tảo mộ từ một dứt ruột đã qua
Từ một dại khờ chưa hết dại...

Phải !
Tôi kiểm thảo bản thân cùng một thời đại buồn rầu

Đêm xuống ướt mui rồi
Sông khuya tì tũm vỗ
Đi thôi ! kỷ niệm !
Có lẽ xa kia là phố tôi sinh
Có sương sớm đọng trên đèn muộn
Từ và thơ ơi !
Dạ khúc khởi đầu


Đêm núm sen
 (tiểu thuyết, 1961)
 chưa xuất bản





Jờ joạcx 
( thơ, 1963 ) di cảo


jờ joạcx
thơ-tiểu thuyết một bè đệm 


joạc jờ jêrô... vòng tròn
thằng truồng bị vây trong vòng
tròn.
tôi không hiểu tôi bò 2 chân trên sẹo
joạc jờ nào?
sao cứ thun thút những
sẹo mưa jọc jài ỗng ễnh bầu mưa?
chứ tôi đâu phải thằng quíc-ss? mà tôi vẫn
bị ngửa thì jờ ướt mưa jòng mùa jọc nịt joạc
vườn jịch ngực joạt đùi jầm mùi jũi lòng.
tôi biết
jành jạch sử kí cả những luồng phùn mọc lọc
người đi. 

hôm nọ lơ thơ bình minh tôi bóc lịc mịch ngày
tôi đi
song song cơn mưa to juỳnh juỵch jạng đông
tôi gặp
một con nữ vận động viên
ướt
jượt
toàn thân
chạy joạch vòng mưa
jòng jòng
1 - 9 - 6 - 3 min mét nữ. 

jờ jạchx nở jòn jọtx 

chính ja tôi thíc cái yếm
nín cái nịt thịt của các kilômét đùi joạcx. tôi
gương trong jập mùng đùi sẹo nữ.
tôi là một cái sẹo mòng mọc khoái jữa các
sẹo bàn ghế tủ nam nữ đồ đạcx. 

tôi lúc nhúc cả ngày tứ phía câu-đố-bé-tí. ẩn số hở
số những hạt cốc tách song song xe cộ. người. giờ. 

tôi tòi.
tôi cốc jâu tươi ướp đường chai bia xuôi vai
sẹo mát hạt mùa nực.
tôi chiếc ôtô mui sinh vật-4-chân
bon trong khi jàn jạt sẹo-2-chân nam nữ
joạc bộ hành.
tôi quần không slip nữ sẹo jọc vườn
hoa kể cả chiếc nữ đồng hồ đeo tay là hạt sẹo
joạc jờ
nhưng làm jì có thì jờ chỉ có ngày đêm
là sẹo nghỉ ngoài jờ.

tôi từ chức tiến sĩ. phó bác sĩ. sử kí. chân lí. thẩm mĩ.

thi sĩ. 

jạch khi truồng mưa lèo lẹo bầu phùn. tôi
không thi hơi nữa với thằng Tìm. vạ jì cởi
trần đăm đắp cộm người 1- 9- 6- 3 nốt sẹo-
mùn-mưa? 

tôi cụt jủn là thằng Tòi.
tôi tòi ja từ cái cống hở vũ trụ nở sẹo khóc
ja ja nhà sẹo hộ sinh
tôi iêu những chiếc nữ mayô
jính ngấn. capôt nữ. jụng cụ nữ buồng jờ. 

toàn thân tôi là một chiếc sinh thực khí jứt
thánh bỏ trí của tất cả nam nữ.
tôi thường trực
jục cưới jao cấu phố. buồng. đường. người.
ngày. mùa. 

tôi thíc những cái tòi -
tòi tí quần lót
thịt tí nịt ngủ tí sẹo đèn hàn hạt
tí câu-đố-bé-tí
chẳng hạn jải jic phố sẹo mưa mùn phùn tí
nữ bộ hành joạc đùi ươn ướt tí...
tí tăc xi tòi
sẹo cửa kính jạch
tí nữ điện thoại jọc vành tai tí
mắt Mông cổ lao sẹo xếchx của nhìn.
tí bồn tắm nữ
tòi ja ngoài vòng tròn jờ. 






No hay comentarios:

Publicar un comentario