NGUYỄN ĐÌNH THI
(1924 - 2003) es un escritor, poeta y músico de Vietnam.
Nació el 20 de diciembre de 1924 en Luang Prabang (Laos). Sin embargo, en su natal pueblo de Vu Thach, ahora Ba Trieu ubicado en Trang Tien, distrito de Hoan Kiem, Hanoi. Su padre era un inspector postal en Indochina.
En la década de 1940 se incorporó a la Organización Nacional de Cultura de Salvación. En 1945 asistió a la Conferencia Nacional de Tan Trao y luego fue elegido diputado en Vietnam. Después de la Revolución de Agosto, Nguyẽ̂n Đình Thi fue nombrado Secretario General de Salvación Nacional de Cultura.
Perteneció a la generación de artistas que se crió en la guerra contra Francia. Escribió tratados filosóficos, poemas, composiciones, dramas, crítica. Fue galardonado con el Premio Ho Chi Minh literatura y arte en 1996.
En 1954 participó en la gestión de literatura y arte. Desde el año 1958 hasta el año 1989 como Secretario General de la Asociación de Escritores de Vietnam. Desde 1995, es presidente del Comité Nacional de la Unión de la Literatura y de la Asociación de Arte.
Murió el 18 de abril de 2003 en Hanoi.
Obras
Historias
Xung kích (1951)
Bên bờ sông Lô (tập truyện ngắn, 1957)
Vào lửa (1966)
Mặt trận trên cao (1967)
Vỡ bờ (tập I năm 1962, tập II năm 1970)
Ensayo
Mấy vấn đề văn học (1956)
Công việc của người viết tiểu thuyết (1964)
Poesía
Người chiến sỹ (1958)
Bài thơ Hắc Hải (1958)
Dòng sông trong xanh (1974)
Tia nắng (1985)
Đất nước (1948 - 1955). (Đã được nhạc sỹ Đặng Hữu Phúc phổ thành bản Giao Hưởng - Hợp xướng cùng tên "Đất nước" Biểu diễn lần đầu tiên tại Nhà hát lớn Hà nội ngày 1 tháng 9/2009, Do chính Đặng Hữu Phúc chỉ huy Dàn nhạc - Hợp xướng Nhà hát Nhạc vũ kịch VN[1])
Drama
Con nai đen
Hoa và Ngần
Giấc mơ
Rừng trúc
Nguyễn Trãi ở Đông Quan
Tiếng sóng
Música
Người Hà Nội (1947)
Diệt phát xít
Obras publicadas
Historias
Shock ( 1951 )
Río Lot (cuentos, 1957 )
El fuego ( 1966 )
Frente el cielo ( 1967 )
Explosión (Volumen I, en 1962 , el conjunto II 1970 )
Ensayo
Algunas cuestiones de la literatura ( 1956 )
El trabajo de escribir una novela ( 1964 )
Poesía
Los guerreros ( 1958 )
Poemas del Mar Negro (1958)
En el Green River ( 1974 )
La luz del sol ( 1985 )
País (1948-1955).
Teatro
Ciervo Blanco
Hoa y Ngan
Sueño
Bosque de bambú
Quan Nguyen Trai en Dongguan
Ondas
Música
El Hanoi (1947)
Lucha contra el fascismo
Recordando
¿Quién recuerda la estrella cuando brilla
Para iluminar la ruta de los soldados sobre el paso de montaña?
¿A quién recuerda la llama cuando hace resplandecer la fría noche
Y calienta el corazón de los soldados bajo los árboles?
Te amo como amo a nuestro país,
En el dolor y la miseria y con gran pasión.
En cada paso que doy, estás en mis pensamientos,
En la comida que como, en cada noche que duermo.
La estrella nunca se atenúa.
Lucharemos nuestras vidas enteras por nuestro amor.
El fuego en el bosque titila su llama roja.
Nos amamos unos a otros, orgullosos de ser humanos.
1951
Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena
Đất nước
Sáng mát trong như sáng năm xưa
Gió thổi mùa thu hương cốm mới
Tôi nhớ những ngày thu đã xa
Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội
Những phố dài xao xác hơi may
Người ra đi đầu không ngoảnh lại
Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.
Mùa thu nay khác rồi
Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi
Gió thổi rừng tre phấp phới
Trời thu thay áo mới
Trong biếc nói cười thiết tha!
Trời xanh đây là của chúng ta
Núi rừng đây là của chúng ta
Những cánh đồng thơm mát
Những ngả đường bát ngát
Những dòng sông đỏ nặng phù sa
Nước chúng ta
Nước những người chưa bao giờ khuất
Ðêm đêm rì rầm trong tiếng đất
Những buổi ngày xưa vọng nói về!
Ôi những cánh đồng quê chảy máu
Dây thép gai đâm nát trời chiều
Những đêm dài hành quân nung nấu
Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.
Từ những năm đau thương chiến đấu
Ðã ngời lên nét mặt quê hương
Từ gốc lúa bờ tre hồn hậu
Ðã bật lên những tiếng căm hờn
Bát cơm chan đầy nước mắt
Bay còn giằng khỏi miệng ta
Thằng giặc Tây, thằng chúa đất
Ðứa đè cổ, đứa lột da...
Xiềng xích chúng bay không khoá được
Trời đầy chim và đất đầy hoa
Súng đạn chúng bay không bắn được
Lòng dân ta yêu nước thương nhà!
Khói nhà máy cuộn trong sương núi
Kèn gọi quân văng vẳng cánh đồng
Ôm đất nước những người áo vải
Ðã đứng lên thành những anh hùng.
Ngày nắng đốt theo đêm mưa dội
Mỗi bước đường mỗi bước hy sinh
Trán cháy rực nghĩ trời đất mới
Lòng ta bát ngát ánh bình minh.
Súng nổ rung trời giận dữ
Người lên như nước vỡ bờ
Nước Việt Nam từ máu lửa
Rũ bùn đứng dậy sáng loà.
1948
Đi tìm cách mạng
Xung quanh làng xóm lầm than
Thóc Tây, đay Nhật muôn vàn thảm thương
Đi phu, đi lính, đắp đường
Người nghèo một cổ mấy tròng thắt ngang
Mùa mùa lúa vẫn chín vàng
Lúa đi đâu mất, ta làm cho ai?
Địa chủ nó có trăm vòi
Hút vào xương tuỷ, mồ hôi dân mình
Tiếng đồn trên núi rừng xanh
Có quân Cách mạng Việt Minh phất cờ
Sao vàng soi lối tự do
Dân nghèo theo hết vỡ bờ nổi lên
Chiến khu ta ở Tây Nguyên
Quân đang vượt núi xuống miền trung du
Mặt trời đang xé sương mù
Dân mình đang phá ngục tù nghìn năm
Truyền đơn rải ở chợ làng
Cờ đỏ mọc giữa đường quan ban ngày
Đồng quê như có lửa bay
Nhà giàu bàn tán, dân cày truyền tin
Quyết lòng dấn bước đi tìm
Một đêm nổi gió băng mình thoát thân
Buổi chiều ấy
Buổi chiều ấy mình như hai đứa trẻ
Anh dắt tay em chạy giữa mưa
Cùng vui quá và cùng run quá
Đến nơi chưa từng biết bao giờ
Như hai con chim trên mặt biển
Bay giữa mênh mông sóng nước mờ
Chỉ có mây trời và gió lớn
Làm bạn cho ta bay mãi xa
Tìm thấy nhau rồi không lạc nữa
Anh dắt tay em chạy giữa mưa
Quên những chông gai quên tất cả
Để lại sau lưng mọi bến bờ
Nguồn: Sóng reo, NXB Hội nhà văn, 2001.
Chia tay trong đêm Hà Nội
Em đi với anh trong đêm Hà Nội
Qua những phố hè quen thuộc yêu thương
Dọc hàng cây ánh đèn pha cuốn bụi
Từng đoàn xe cao xạ chạy rung đường
Pháo đang bắn trời ngoại ô gió thổi
Đạn đỏ loè xa trong ánh trăng
Em đi bên canh tóc xoà bay rối
Nhỏ nhắn vai em khoác súng trường
Nhìn em anh hãy còn bỡ ngỡ
Như sợ bất ngờ em biến đi đâu
Pháo vẫn bắn chân mây đầy chớp lửa
Anh lại nhìn em lòng xôn xao
Trăng soi gương mặt nghìn yêu dấu
Ngày mai hai đứa đã hai nơi
Hai đầu đất nước trong dông bão
Cùng chung chiến đấu hai phương trời
Đêm nay trong vườn hoa ngổn ngang ụ súng
Bên ven hồ lốm đốm trăng xanh
Nghe quanh ta đêm hè nóng bỏng
Mắt bồi hồi em đi bên anh
Em đi với anh qua bến xe đông chật
Bao gia đình vội vã lúc ra đi
Em nhìn những mái nhà cao thấp
Đã bao lần thấy những cuộc chia ly
Kìa xa xa một cụm đèn lấp lánh
Giữa trời đêm như đang vẫy đang chào
Chiếc máy bay ta lượn vòng nghiêng cánh
Bay qua vầng trăng điểm mấy ngôi sao
Em nhìn bên dãy tường sập đổ
Xưởng thợ lò than vẫn rực hồng
Nhà máy vẫn rì rầm không ngủ
Lập loè đèn hàn điện bên sông
Em đi với anh trên đê cao vắng
Một tiếng còi xe lửa huýt dài xa
Gió đưa khúc nhạc em yêu văng vẳng
"Mỗi tấc đất Hà Nội đượm thắm mãi lòng ta"
Trên gác nhỏ đèn dầu ai vẫn thức
Em vẫn đi và vẫn lắng yên
Có tiếng ru đứa trẻ nào đang khóc
Đêm đã khuya trong phố cũ êm đềm
Anh nắm cánh tay em và đứng lại
Ôi anh không còn biết đang ở đâu
Nhớ nhau chân cứng đá mềm em nhé
Hẹn đánh Mỹ xong sẽ về tìm nhau
Chào Hà Nội của ta sáng đẹp
Giữa đêm trăng trong biếc mênh mông
Thành phố tình yêu thành phố thép
Ta chào trái tim đất nước anh hùng
Anh ôm chặt em và ôm cả khẩu súng trường bên vai em.
.
No hay comentarios:
Publicar un comentario