THÂM TÂM
Su verdadero nombre es Nguyen Tuan Trinh, nacido el 12 de mayo de 1917 en la ciudad de Hai Duong (ahora ciudad de Hai Duong ), provincia de Hai Duong, Vietnam. Murió de una enfermedad repentina el 18 de agosto de 1950.
Le fue concedido a título póstumo el Premio Estatal de Literatura y Arte en 2007.
OBRA:
Poesía:
Tống biệt hành
Ngậm ngùi cố sự
Chào Hương Sơn
Ly biệt
Vạn lý Trường thành (thơ in trên các báo trước 1945)
Chiều mưa đường số 5 (1948)
Thơ Thâm Tâm (1988)
Drama:
Sương tháng Tám (kịch một hồi, Tiểu thuyết thứ bảy, 1939)
Nga Thiên Hương
19-8
Lối sống (1945)
Lá cờ máu
Người thợ (1946)
Lluvia de atardecer en la Ruta 5
La tarde lluviosa empapó
Este blanco campo de malezas.
En la tierra ocupada, el río estaba quieto.
Muchos soldados hacinados
Bajo techos de paja
Oían el viento frío soplar silenciosamente.
Tarde lluviosa en la Ruta 5.
Todos los ojos absortos en la distancia,
Interiorizando el cielo entero,
Las pesadas nubes de nuestra lejana
Base en Viet Bac,
Las montañas y bosques encantadores
Cuando padecíamos el frío y la lluvia.
Por dos años los sufrimos.
En la tarde de lluvia mil
Flores Mai brotaron, sus pétalos
Traían el color de la primavera.
Alguien encendió el fuego en la estufa,
La fragancia del té como el amor de los aldeanos,
Aliento de lluvia a través de las ventanas.
El día que los soldados se fueron
La anciana madre se quedó en silencio,
Sus ojos húmedos de lágrimas.
Oh, ¿dónde está el pueblo de las montañas?
¿Dónde está la guerrilla
Con ropas raídas bajo la lluvia?
Rifles al hombro, escalaron
El paso, penetrando líneas enemigas.
¿Dónde estábamos tú y yo
Cuando reíamos a carcajadas, esperando
A los soldados después de la emboscada?
Bajo la lluvia, los trilladores de arroz se apresuran,
Los morteros golpean, golpean,
Thunk, Thunk, al unísono.
Oh altas montañas, bosques profundos,
¿Dónde está mi viejo pelotón?
¿Sabes que la lluvia se apresura
Aquí donde esta delgada manta fría
Me recuerda la primera frialdad?
Entonces siento el amor
Del pueblo de Viet Bac.
Ruta 5 es el camino de Hanoi a Hai Phong. Durante la ocupación francesa,
estuvo bajo constante ataque de la Resistencia. Viet Bac, o Vietnam del
Norte, fue la base principal de la Resistencia.
Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena
Tống biệt hành
Ðưa người ta không đưa qua sông
Sao có tiếng sóng ở trong lòng?
Bóng chiều không thắm, không vàng vọt
Sao đầy hòang hôn trong mắt trong?
Ðưa người, ta chỉ đưa người ấy
Một giã gia đình, một dửng dưng...
Ly khách! ly khách! con đường nhỏ
Chí lớn chưa về bàn tay không
Thì không bao giờ nói trở lại!
Ba năm mẹ già cũng đừng mong.
Ta biết người buồn chiều hôm trước
Bây giờ mùa hạ sen nở tốt
Một chị, hai chị cũng như sen
Khuyên nốt em trai dòng lệ sót.
Ta biết người buồn sáng hôm nay
Trời chưa mùa thu, tươi lắm thay.
Em nhỏ ngây thơ đôi mắt biếc
Gói tròn thương tiếc chiếc khăn tay...
NGƯỜI ĐI? Ừ NHỈ, NGƯỜI ĐI THỰC!
Mẹ thà coi như chiếc lá bay
Chị thà coi như là hạt bụi
Em thà coi như hơi rượu cay.
Đây cảnh cũ, đâu người xưa
Đây cảnh cũ, đâu người xưa
Tình cũ năm qua để hững hờ
Hoa dẫu mỉm cười nhưng có ý
Phảng buồn mặt phấn nét tương tư
Giận thời gian, tiếc ngây thơ
Lòng xuân tình cảm bây giờ gửi ai?
Trinh xuân mộng cũ đi rồi
Cảnh sinh xa vắng ngậm ngùi ly tao
Gặp Trinh trong bóng xuân đào
Đang khi quãng gió dạt dào chim ca
Má hồng, hồng đượm hương hoa
Rung rinh đọng giọt phấn nhoà sương rơi
Hoa xuân thắm, nụ xuân tươi
Quyện hoa hơn hớn, lòng ơi mộng lòng
Trinh tay nâng giấc cánh hồng
Với vần thơ hái mơ mòng tôi yêu...
Cảm nhau từ đấy xuân chiều
Cành thơ, lá gió dập dìu ngân nga
Tìm Trinh trong nắng tôi ra
Lời oanh ríu rít vuốt hoa Trinh cười
Nhưng đây nắng liễu buồn ơi!
Ba xuân nẩy nét chia phôi chim ngừng....
(1941)
Bán hoa đào
Vang bóng thanh bình phố đỏ trưng
Mươi lăm thầy khoá viết khom lưng
Dăm nàng gái nõn ngon như mứt
Đi sánh hoa đào vẻ má nhung
Có một thân tang mang trắng phơ
Ngang đầu màu tóc lẫn màu tơ
Lão buồn đi bán cành hương thắm
Hoa đỏ...mừng vang, áo... bạc mờ!
Ai cũng như ai bận tiếp xuân
Mê man sắc tía ngả đầy tâm
Riêng cô, lão bán muôn hồn đỏ
Rồi lủi về đâu kiếp lệ thầm?
Có những lòng trinh bán một giờ
Vợ người cơ lỡ bán con thơ
Cùng đường, trai bán thân cao trọng
Có vạn linh hồn đã bán mua
Như lão rao hoa có vạn tình
Trĩu trời tang, nặng kiếp thương sinh
Tháng ngày âm ỉ nguồn đau chảy
Trong mắt u trầm ngọn lửa xanh!
Nghiến răng đem bán hết đời xuân
Có kẻ nên tang chẳng một lần
Chảy dưới mắt đời, khi tất cả
Máu đào tranh chảy đã muôn năm
1940
Nguồn: Thơ Thâm Tâm, NXB Văn học, 1988.
.
No hay comentarios:
Publicar un comentario