NGUYỄN DUY
Nguyễn Duy. Nombre real: Nguyễn Duy Nhuệ, nació el 12/07/1948 en Dong Ve comuna, distrito de Dong Son, Thanh Hoa, Vietnam.
En 1966 se alistó en el ejército, se convirtió en soldado de las líneas del ejército de información. Nguyễn Duy siempre comprometido en combate en los campos de batalla de Khe Sanh, Ruta 9 - el sur de Laos, y más tarde en el frente sur, el Frente del Norte (1979).
Trabajó en The Arts semanal, la Asociación de Escritores de Vietnam y fue representante de este periódico en el Sur.
Nguyễn Duy, comenzó a escribir poesía muy pronto. Su primer trabajo fue el poema "En el patio," escrito a principios de los 60, cuando era estudiante de secundaria en Lam Son, Thanh Hoa. Pero no fue hasta 1973, que fue realmente famoso por el primer premio del concurso poemas poesía Arts Magazine.
Fue galardonado con el Premio Estatal de Literatura 2007.
OBRAS:
- Cát trắng (thơ, Nxb Quân đội, 1973)
- Phóng sự 30475 (thơ, Nxb Văn nghệ, 1981)
- Em sóng (kịch thơ, Nxb Kim Đồng, 1983)
- Ánh trăng (thơ, Nxb Tác phẩm mới, 1984)
- Khoảng cách (tiểu thuyết, Nxb Phụ nữ, 1985)
- Nhìn ra bể rộng trời cao (bút ký, Nxb Văn nghệ, 1986)
- Mẹ và Em (thơ, Nxb Thanh Hoá, 1987)
- Đãi cát tìm vàng (thơ, Nxb Văn nghệ, 1987)
- Tôi thích làm vua (ký, Nxb Văn nghệ, 1988)
- Đường xa (thơ, Nxb Trẻ, 1989)
- Quà tặng (thơ, Nxb Văn học, 1990)
- Về (thơ, Nxb Hội nhà văn, 1994)
- Sáu & Tám (thơ, Nxb Văn học, 1994)
- Tình tang (Nxb Văn học, 1995)
- Vợ ơi (thơ, Nxb Phụ nữ, 1995)
- Bụi (thơ, Nxb Hội nhà văn, 199
Đò Lèn *
De niño, pasaba yo mis días pescando en el arroyo de Na,
o agarrado de la falda de mi abuela en el mercado de Binh Lam,
o atrapando gorriones en los oídos del gran Buda,
o robando ojos de dragón en la pagoda de Tran.
De noche jugaba descalzo en el Santuario de Cay Thi,
me unía a la multitud en el festival del templo Song;
lirios blancos olían más dulcemente con el humo de incienso,
el médium se tambaleaba al ritmo de antiguas canciones.
No pensaba entonces en su vida dura: cómo mi abuela
recogía gambas y escarbaba buscando cangrejos en el campo de Quan,
cómo se tambaleaba con aquellas cestas de habas verdes sobre su hombro
yendo a Ba Trai, Quan Chao, Dong Giao, en frías noches heladas.
Yo vivía entre las orillas de la verdad y la mentira,
entre mi abuela y los ángeles, Buda y los dioses.
Recordé el primer año del hambre y el dong medio cocido;
¿Aspiraba entonces la fragancia del incienso y los lirios blancos?
Pero pronto las bombas empezaron a caer. La casa de mi abuela
fue arrasada,
El templo Song arrasado, la pagoda arrasada,
dioses y budas se fueron juntos;
mi abuela vendía huevos en la estación de tren de Len.
Me uní al ejército…, viajé lejos de mi pueblo por muchos años,
antiguo río con una orilla derruida y otra construida.
Descubrí muy tarde el amor por mi abuela
un montículo pastoso era todo lo que quedaba.
Aldea de la Madre, 9/1983
*Đò Lèn* Embarcadero de Lèn
Antología de poemas de Vietnam
Traducción de León Blanco,
con la colaboración de G. Leogena
Đò Lèn
Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng
Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn
Tôi trong suốt giữa hai bờ hư - thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm
Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn
Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà thì đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi!
9-1983
Nguồn: Nguyễn Duy, Ánh trăng, Nxb Tác phẩm mới, 1984
Tre Việt Nam
Tre xanh
Xanh tự bao giờ?
Chuyện ngày xưa... đã có bờ tre xanh
Thân gầy guộc, lá mong manh
Mà sao nên lũy nên thành tre ơi?
Ở đâu tre cũng xanh tươi
Cho dù đất sỏi đất vôi bạc màu
Có gì đâu, có gì đâu
Mỡ màu ít chắt dồn lâu hoá nhiều
Rễ siêng không ngại đất nghèo
Tre bao nhiêu rễ bấy nhiêu cần cù
Vươn mình trong gió tre đu
Cây kham khổ vẫn hát ru lá cành
Yêu nhiều nắng nỏ trời xanh
Tre xanh không đứng khuất mình bóng râm
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm tay níu tre gần nhau thêm
Thương nhau tre không ở riêng
Lũy thành từ đó mà nên hỡi người
Chẳng may thân gãy cành rơi
Vẫn nguyên cái gốc truyền đời cho măng
Nòi tre đâu chịu mọc cong
Chưa lên đã nhọn như chông lạ thường
Lưng trần phơi nắng phơi sương
Có manh áo cộc tre nhường cho con
Măng non là búp măng non
Đã mang dáng thẳng thân tròn của tre
Năm qua đi, tháng qua đi
Tre già măng mọc có gì lạ đâu
Mai sau,
Mai sau,
Mai sau...
Đất xanh tre mãi xanh màu tre xanh
1970-1972
Nguồn: Nguyễn Duy, Cát trắng, Nxb Quân đội nhân dân, 1973
Hơi ấm ổ rơm
Tôi gõ cửa ngôi nhà tranh nhỏ bé ven đồng chiêm
Bà mẹ đón tôi trong gió đêm
- Nhà mẹ hẹp nhưng còn mê chỗ ngủ
Mẹ chỉ phàn nàn chiếu chăn chả đủ
Rồi mẹ ôm rơm lót ổ tôi nằm
Rơm vàng bọc tôi như kén bọc tằm
Tôi thao thức trong hương mật ong của ruộng
Trong hơi ấm hơn nhiều chăn đệm
Của những cọng rơm xơ xác gầy gò
Hạt gạo nuôi hết thảy chúng ta no
Riêng cái ấm nồng nàn như lửa
Cái mộc mạc lên hương của lúa
Đâu dễ chia cho tất cả mọi người
Bình Lục - một đêm lỡ đường
Nguồn: Nguyễn Duy, Cát trắng, Nxb Quân đội nhân dân, 1973
Dịu và nhẹ
Nhàm tai nghe rối tiếng ầm
dọn tai ta lắng tiếng thầm thế gian
Mùa xuân trở dạ dịu dàng
hoa khe khẽ hé nhẹ nhàng hương bay
Nhẹ nhàng lộc cựa nách cây
dịu dàng vương dải tím mây ngang chiều
Nhẹ nhàng tiếng bóng xiêu xiêu
em ngồi chải tóc muối tiêu dịu dàng
Má hồng về xứ hồng hoang
tóc rơi mỗi sợi nghe ngàn lau rơi
Dịu dàng vang tiếng mắt cười
bỏ qua sấm chớp một thời xa xăm
Bỏ qua tội tháng nợ năm
tự nhiên giọt nước mắt lăn nhẹ nhàng...
(Cuối năm con Ngựa 1990)
Nguồn: Nguyễn Duy, Về, NXB Hội nhà văn, 1994
No hay comentarios:
Publicar un comentario